Bệnh thoát vị nói chung chúng ta gặp trong khoảng 5% dân số
trên thế giới. Trong đó thoát vị bẹn chiếm đến khoáng 81% trong số các bệnh
thoát vị. Trong các bệnh thoát vị thì thoát vị bẹn tỉ lệ nam giới chếm khoảng 7
đến 8 lần nữ giới.
Đại cương về thoát vị và thoát vị bẹn
Định nghĩa
Thoát vị là tình trạng các tạng bên trong tổ chức phúc chạy
ra ngoài ổ phúc mạc trong túi thừa phúc mạc thường gọi là “Túi Thoát Vị”, qua
các điểm yếu tự nhiên của thành bụng. Các cấu trúc yếu này có thể là do bẩm
sinh hay mắc phải.
Định nghĩ này cho
phép loại đi bệnh cảnh thường được gọi trước đây là THOÁT VỊ ĐƯỜNG MỔ mà thực
chất nó chỉ là tình trạng sổ thành bụng.
Thoát vị bẹn là tình trạng các tạng bên trong ổ phúc mạc đi
ra ngoài qua điểm yếu ở thành sau của ống bẹn.
Phân loại
Có nhiều cách phân loại thoát vị và nhiều thuật ngữ khác
nhau:
Theo định khu: Thoát vị bẹn, thoát vị đùi, thoát vị rốn,
thoát vị qua tam giác thắt lưng.
Theo nguyên nhân: Thoát vị bẩm sinh, thoát vị mắc phải.
Theo tính chất: Thoát vị ngẹt, thoát vị đẩy lên được, thoát
vị cầm tù.
Thoát vị nội: Tạng
thoát vị chui qua điểm yếu bên trong ổ phúc mạc và không nhìn thấy từ bên ngoài
được, như thoát vị qua khe Winslow, qua lỗ bịt, qua lỗ cơ hoành, qua khe thực
quản.
Giải phẫu bệnh
Có 3 yếu tố giải phẫu tạo nên tất cả các loại thoát vị.
Đường đi
Các tạng thoát vị luôn luôn đi qua điểm yếu của thành bụng, có thể chỉ là một lỗ đơn thuần
(thoát vị rốn), hay một ống thật sự như trong thoát vị bẹn gián tiếp.
Túi thoát vị
Là một túi thừa phúc mạc, bên ngoài được bao phủ bởi các tổ
chức như cân cơ, mỡ, mô dưới da. Túi bao
gồm một cuống hay còn gọi là cổ túi thoát vị, một thân và một đáy. Tuy nhiên
tùy loại thoát vị mà các thành phần này có rõ ràng hay không.
Tạng thoát vị
Thường là các tạng trong ổ phúc mạc như ruột, mạc nối lớn,
phần phụ. Hiếm khi có thể thấy các tạng ngoài phúc mạc như bàng quang, mỡ.
Giải phẫu vùng bẹn
Vùng bẹn được quy ước là khu vực gồm phần thấp của hố chậu
và hạ vị mỗi bên, nằm trên nếp lằn bẹn.
Bệnh lý của vùng bẹn chủ yếu là thoát vị bẹn, không những thể
hiện triệu chứng ở vùng bẹn mà còn ở bộ phận sinh dục ngoài (bìu hay môi lớn)
và cả ở đùi. Vì vậy mà bìu, môi lớn được xem như một liên quan mở rộng của vùng bẹn.
Cấu trúc giải phẫu chủ yếu ở vùng bẹn là ống bẹn. Ống bẹn gồm
4 thành và 2 lỗ:
Thành trước: Là tận cùng của cân cơ chéo bụng ngoài với các
cột trụ ngoài và trong.
Thành sau: Phức tạp, gồm có các phần ở sau cân cơ của thành
bụng, trong đó đáng chú ý là mạc ngang.
Thành trên: Gồm các thớ cơ thấp nhất của cơ chéo bụng trong
và cơ ngang, xuống thấp tạo thành liềm bẹn hay gân kết hợp.
Thành dưới: là cung đùi gồm các thớ cân của cơ chéo bụng
ngoài cuốn chung quanh dây bẹn ngoài
Hence từ trườc ra sau và từ ngoài vào
trong làm thành một cấu trúc hình máng hướng lên trên.
Dây chằng bẹn phân chia ống bẹn ở trên và vòng đùi ở phía dưới.
Lỗ bẹn nông: Ở mức gai mu, nằm giữa cột trụ ngoài và cột trụ trong.
Lỗ bẹn sâu: Nằm ở phía trên trung điểm của nếp bẹn khoảng
1,5-2cm.
Ở nam, ống bẹn là đường
đi của tinh hoàn từ ổ bụng xuống bìu trong thời kỳ phôi
thai vào tuần thứ 12 cuối thai kỳ.
Tinh hoàn xuống bìu kéo theo phúc mạc tạo thành ống phúc tinh mạc. Sau khi tinh
hoàn đã xuống bìu, ống bẹn sẽ chứa thừng
tinh, còn ống phúc tinh mạc sẽ bít lại tạo thành dây chằng Cloquet. Còn ở
nữ, ống bẹn chứa dây chằng tròn.
Mặt trong của vùng bẹn có động mạch thượng vị dưới, thừng động
mạch rốn và dây treo bàng quang đội vào
phúc mạc tạo nên các nếp nhô và chia vùng bẹn ra thành 3 hố bẹn:
Hố bẹn ngoài: Nằm ngoài động mạch thượng vị dưới, là nơi
xảy ra thoát vị bẹn chéo ngoài
gián tiếp.
Hố bẹn giữa: Nằm giữa động mạch thượng vị dưới và thừng động
mạch rốn, là nơi xảy ra thoát vị bẹn trực tiếp.
Hố bẹn trong: Nằm giữa thừng động mạch rốn và dây treo bàng
quang, là nơi xảy ra thoát vị bẹn chéo trong, rất hiếm gặp.
Cho đến ngay nay nguyên nhận tại sao chỉ có một số người bệnh
vị bẹn, đối với thoát vị bẹn thể trực tiếp vẫn chưa được biết rõ. Riêng đối với
những ca thoát vị bẹn gián tiếp tồn tại ông phục tinh mạc được xem như là
nguyên nhân chủ đạo. Mặc dù trong một số không ít các trường hợp không có thoát
vị bẹn dù tồn tại trong ống phúc tinh mạc. Nhiều nghiên cứu đã cố gắng tìm hiểu
và đáo ứng của một vòng bẹn trong đối với sự gia tăng áp lực trong ổ phúc mạc.
Các nghiên cứu này cũng đã chỉ ra rẳng lỗ bẹn sâu còn có tác dụng như là một cấu
trúc dạng van, có vai trò ngăn cản không qua các tạng chui ra lỗ bẹn sâu có
tăng áp lực một cách đột ngột như khi ho và rặn..Trong thoát bị bẹn gián tiếp,
thì chức năng này bị suy yếu gần như là mất hẳn.
Đối với những người thoát vị bẹn trực tiếp, thì nhiều nghiên
cứu chỉ ra rằng các biến loạn về chuyển hóa và sinh hóa có đóng các vai trò
quang trong như là hình thành mà đặc biệt là khả năng tái phát. Trong đó nổi vật
nhất là vai trò của các sợ collagen ở các bệnh nhận thoát vị bẹn trực tiếp, người
ta nghi nhận sự giảm và tạo ra các collagen, giảm các hảm lượng và trọng lượng
của các sợi collagen. Tuy nhiên về bản chất của quá trình này chúng ta vẫn chưa
hiểu biết 1 cách đầy đủ.
Phân loại thoát vị bẹn
Theo vị trí giải phẫu
Thoát vị bẹn chéo ngoài: Đa số là thoát vị bẩm sinh, tạng
chui ra ngoài qua hố bẹn ngoài, vào ống phúc tinh mạc để xuống bìu. Túi thoát
vị nằm trong bao xơ thừng tinh.
Thoát vị bẹn trực tiếp: Đa số là thoát vị mắc phải, tạng
chui ra ngoài đi qua hố bẹn giữa. Túi
thoát vị nằm ngoài bao xơ thừng tinh.
Thoát vị bẹn chéo trong: tạng chui ra ở hố bẹn trong, rất hiếm
gặp.
Theo nguyên nhân
Thoát vị bẩm sinh: Do tồn tại ống phúc tinh mạc, là thoát vị chéo ngoài và
thường gặp ở trẻ em.
Thoát vị mắc phải: Do yếu cân cơ thành bụng, thường gặp ở người già, tạng chui ra ở hố bẹn giữa.
Theo tiến triển
Thoát vị chỏm: Tạng mới vừa chui qua khỏi lỗ bẹn sâu.
Thoát vị kẽ: Tạng chui ra khỏi lỗ bẹn sâu và nằm trong ống bẹn.
Thoát vị bẹn-mu: Tạng chui ra nằm ở gốc dương vật.
Thoát vị bẹn-bìu: Tạng thoát vị xuống đến bìu.
Triệu chứng
Cơ năng
Hỏi lý do vào viện: Thường có 2 lý do chính khiến bệnh nhân
vào viện, đau tức ở vùng bẹn bìu hoặc khối phồng ở vùng bẹn bìu.
Hỏi hoàn cảnh xuất hiện của triệu chứng vừa hỏi được: Từ sau
sinh, mới xuất hiện trong thời gian gần
đây, sau khi khuân vác nặng hay chạy nhảy nhiều.
Triệu chứng khác kèm theo như táo bón, tiểu khó, đại tiện ra
máu (trĩ).
Thực thể
Triệu chứng tìm thấy chủ yếu là khối phồng với các tính chất
của nó như nằm trên nếp lằn bẹn, chạy dọc
theo chiều của ống bẹn từ trước ra sau và từ trên xuống dưới, từ ngoài vào trong. Khối phồng
thay đổi kích thước theo tư thế và khi làm các nghiệm pháp tăng áp lực ổ bụng
như ho, rặn....
Nếu là thoát vị bẹn-bìu thì thấy bìu lớn bất thường.
Sờ
Là động tác quan trọng nhất trong khám thoát vị bẹn.
Khối phồng vùng bẹn: Cổ nằm trên nếp lằn bẹn, không đau nếu
chưa có biến chứng, tăng kích thước khi
tăng áp lực ổ bụng. Nếu tạng thoát vị là quai ruột thi sờ có cảm giác lọc
xọc, sờ cảm giác chắc nếu tạng thoát vị là mạc nối.
Lỗ bẹn nông rộng.
Một số nghiệm pháp thường dùng trong chẩn đoán thoát vị bẹn:
“Chạm ngón”: Dùng
ngón tay đội da bìu đi ngược lên vào lỗ bẹn nông, ước lượng khẩu kính của
nó. Tiếp đó quay áp mặt múp của ngón vào thành sau ống bẹn rối bảo bệnh nhân ho
mạnh. Đón nhận cảm giác chạm túi thoát vị
vào ngón tay, nếu ở đầu ngón là thoát vị bẹn
thể gián tiếp, nếu ở mặt múp ngón là thoát vị bẹn trực tiếp.
“Thủ thuật Zieman”:
Dùng 3 ngón tay để xác định loại thoát vị. Khám bên nào thì dùng bàn tay bên đó: Ngón trỏ ở nếp bụng-mu
thấp, ngón giữa theo nếp bẹn còn ngón nhẫn
ở hõm bầu dục ở đáy tam giác Scarpa. Rồi bảo bệnh nhân ho mạnh: Nếu cảm giác chạm ở ngón trỏ là thoát vị bẹn trực tiếp,
nếu ở ngón giữa là thoát vị bẹn gián tiếp còn
nếu ở ngón nhẫn là thoát vị đùi.
Ngoài ra còn có một số
nghiệm pháp khác như nghiệm pháp lăn thừng tinh của Ladd (rolling test), dấu hiệu
cọ xát của lụa...
Soi đèn
Soi bằng đèn bấm, trong phòng tối. Soi từng bên bìu và so
sánh với bên đối diện. Trong trường hợp tràn dịch màng tinh hoàn, tràn dịch ống
Nuck hay nang nước thừng tinh, nang ống Nuck thì có hiện tượng thấu sáng. Trong
trường hợp thoát vị bẹn thì giảm sáng so với bên đối diện.
Siêu âm
Nhiều nghiên cứu cho thấy vai trò của siêu âm trong chẩn
đoán thoát vị. Siêu âm cho thấy hình ảnh của các quai ruột hay mạc nối bên
trong khối phồng.
Đôi khi siêu âm còn cho phép đo được đường kính lỗ bẹn sâu.
Nội soi ổ bụng
Cho phép thấy được lỗ bẹn sâu rộng, tạng thoát vị chui qua lỗ
bẹn sâu.
Chẩn đoán
Chẩn đoán xác định
Lâm sàng.
Siêu âm.
Nội soi ổ bụng.
Chẩn đoán phân biệt
Tràn dịch màng tinh hoàn
Da bìu căng.
Lỗ bẹn nông không rộng.
Không sờ được tạng trong túi thoát vị.
Soi đèn.
Siêu âm.
Nang nước thừng tinh
Lỗ bẹn nông.
Siêu âm.
Dãn tĩnh mạch thừng tinh
Lỗ bẹn nông
Sờ cảm giác như búi giun.
Siêu âm.
Phân biệt thoát vị bẹn trực tiếp và gián tiếp
Tuổi.
Tiền sử, bệnh sử.
Nghiệm pháp “chạm ngón”
Phân biệt thoát vị bẹn nghẹt với xoắn tinh hoàn
Nếu là xoắn tinh hoàn thì:
Tiền sử không có thoát vị bẹn.
Da bìu có thể nề đỏ.
Tinh hoàn bên bị xoắn lên cao hơn bình thường.
Các nghiệm pháp.
Siêu âm, Doppler.
Tiến triển
Nếu không được điều trị 1 cách kịp thời thì thoát vị ngày
cang to thành bụng ngày càng yếu, khả năng phục hồi thành bụng càng khó và dễ
tái phát.
Một số biến chứng thường gặp:
Nghẹt: Triệu chứng sớm nhất là đau ở cổ và túi thoát vị. Nếu
tạng thoát vị là quai ruột bệnh nhân có các triệu chứng thoát bị bẹn như là tắc ruột. Trường
hợp chỉ nghẹt 1 thành quai của ruột, bệnh nhân không có các triệt chứng của việc
tắc ruột nhưng rất dễ gây nên thủng ruột và viêm phúc mạc, được coi như là
thoát vị của Rickter.
Viêm dính tạng thoát vị với bao thoát vị.
Chấn thương khối thoát vị làm thương tổn tạng bên trong.
Điều trị
Nguyên tắc là điều trị ngoại khoa. Tuy nhiên, tùy thuộc vào
tuổi và tình trạng toàn thân của bệnh nhân mà có chỉ định can thiệp ngoại khoa
hay không và nếu có thì nên can thiệp ngoại khoa khi nào.
Trẻ em
Vấn đề băng treo bìu
Không có chỉ định trong điều trị thoát vị bẹn ở trẻ em. Nếu như chưa can thiệp phẫu thuật thoát vị bẹn vì một lý
do gì đó (tuổi, bệnh lý kèm theo.. ..)
thì chỉ nên theo dõi. Việc băng treo bìu hay băng ép vùng bẹn sẽ ảnh hưởng đến sự trưởng thành cũng như chức năng của tinh
hoàn sau này.
Phẫu thuật
Trẻ nhỏ dưới 1 tuổi: Theo dõi cho đến 1 tuổi, nếu không tự
khỏi thì mổ, ngoại trừ khi có biến chứng.
Trẻ trên 1 tuổi: Mổ thắt cao túi thoát vị (ống phúc tinh mạc),
không cần tái tạo thành bụng.
Người trưởng thành
Vấn đề băng treo bìu có thể áp dụng cho những người quá già
yếu, hay bệnh lý nội khoa nặng nề, không
có chỉ định phẫu thuật. Phương pháp này chống chỉ định khi cổ túi thoát vị nhỏ
và đôi khi nó có thể làm cho một trường hợp thoát vị không nghẹt nhưng “cầm tù”
trở nên nghẹt.
Phẫu thuật: Nhằm 2 mục đích.
Khâu cổ túi và cắt bỏ túi thoát vị
Tái tạo thành bụng.
Các phương pháp phục hồi thành bụng trước thừng tinh: ít
dùng.
Các phương pháp phục hồi thành bụng sau thừng tinh: Bassini,
Shouldice.
Đặt tấm nhân tạo (Prothèse).
Mổ nội soi trước phúc mạc hay trong phúc mạc.
Từ khóa: benh thoat vi,benh thoai vi ben,benh sa ruot la gi,benh sa ruot co nguy hiem khong,benh sa ruot,benh sa di o nam gioi,benh sa di,benh sa biu,benh sa ben,benh ruot thong,benh hoc thoat vi ben,benh dai dem,benh ben,benh an thoat vi ben,benh an ngoai khoa thoat vi ben,benh an hau phau thoat vi ben
Từ khóa: benh thoat vi,benh thoai vi ben,benh sa ruot la gi,benh sa ruot co nguy hiem khong,benh sa ruot,benh sa di o nam gioi,benh sa di,benh sa biu,benh sa ben,benh ruot thong,benh hoc thoat vi ben,benh dai dem,benh ben,benh an thoat vi ben,benh an ngoai khoa thoat vi ben,benh an hau phau thoat vi ben
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét